image banner
Năm 2023 đẩy mạnh chỉnh trang, hiện đại hóa đô thị, xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu - Thực hiện chuyển đổi số
Di tích lịch sử văn hóa Đình, chùa Nhân Mục
Lượt xem: 142
Di tích lịch sử văn hóa Đình, chùa Nhân Mục

DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA CẤP QUỐC GIA ĐÌNH, CHÙA NHÂN MỤC

XÃ NHÂN HOÀ HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

---------------------

          Đình – chùa Nhân Mục, xã Nhân Hoà, huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng là một trong những làng cổ có truyền thống lịch sử và văn hoá lâu đời. Nhân dân Nhân Hoà đã phát hiện trong lòng đất quê hương, trong tập tục cổ truyền nhiều dấu vết văn hoá của thời các vua Hùng dựng nước cách ngày nay hơn 2000 năm. Nhân Mục đã từng là bản doanh và hành chính cung của Hiến Công Quý Minh đại vương, danh tướng của Hùng Duệ Vương. ở Nhân Mục, đức thành hoàng Hiển Công – Quý Minh đại vương được nhân dân kính trọng và đã hoá thân từ anh hùng văn hoá thành anh hùng dựng nước và giữ nước. Ông là người mở đầu cho truyền thống yêu nước, đoàn kết gắn bó từ trong cuộc đấu tranh giữ nước đến công việc cấy trồng. Nhân Mục đã hình thành và bảo lưu nhiều tập quán của một làng quê nông nghiệp cổ truyền, mang đậm nét thuần hậu của tình làng nghĩa xóm. Trải qua bao thế kỷ, nhân Dân Nhân Mục còn gìn giữ dấu tích văn hoá của nhiều thời đại lịch sử kế tiếp nhau mà đến nay mọi người còn có thể chiêm ngưỡng ngôi đình, mái chua cong cổ kính trong quê hương.

 Đình Nhân Mục là nơi diễn ra các hội tế lễ lớn vào các dịp tế thành hoàng. Ngoài ra đền còn có các cuộc tế lễ khác như cầu mưa vào mùa hè và vào các dịp có thành viên lo ngôi nhiên, cai đám, khao làng lên lão hay nhận hương chức.Mọi sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng cổ truyền của nhân dân Nhân Mục – Nhân Hoà hiện nay dường như tập trung tại đình và chùa Nhân Mục. Đình, chùa Nhân Mục là những công trình kiến trúc nghệ thuật đồ sộ, vững chắc, xứng đáng được liệt hạng, bảo tồn.

          Đình và chùa Nhân Mục cách nhau một khoảng không xa lắm, ngót 300m. Mỗi công trình hình thành một cảnh quan môi trường độc lập nhưng giữa chúng lại tạo thành một cụm di tích tín ngưỡng liên hoàn trong tâm linh và tình yêu quê hương, đất nước của nhân dân địa phương.

tại Quyết định số 3211VH/QĐ ngày 12/12/1994 của Bộ văn hoá Thông tin, nay là Bộ Văn Hoá – Thể Thao công nhận  Đình chùa Nhân Mục là di tích lịch sử văn hoá cấp Quốc gia.          

LỄ HỘI ĐÌNH NHÂN MỤC VÀ MIẾU CỰU ĐIỆN – CHỈ DẪN CHO DU LỊCH LỄ HỘI HẢI PHÒNG

Đình Nhân Mục nổi lên như một di tích cổ kính nhất và vẫn giữ được sự tiếp nối mạch nguồn trong sinh hoạt văn hoá, lễ hội cổ truyền vào ngày 10/3 âm lịch hàng năm. Quan niệm chung từ trước tới nay cho đình thuộc dòng nghệ thuật dân gian. Nhưng bằng vào kết quả khảo sát, nghiên cứu các ngôi đình còn nguyên vẹn ở huyện trọng điểm lúa Vĩnh Bảo, trong đó có đình Nhân Mục.

           Đình Nhân Mục là một toà kiến trúc cổ kính có qui mô bé thể khang trang, bố cục theo lối chữ công truyền thống. Đình quay hướng Đông Nam chờ đón ánh mặt trời buổi gian hậu cung. Hiền đình sớm gồm 5 gian tiền đường, 1 gian ống muống và ba rộng được bó bằng những phiến đá vôi xanh liền khối, mở xuống sân lát gạch chỉ phẳng phiu và rộng rãi. Quanh đình có vườn cây trái tốt tươi. Mái đình rộng và thấp, rêu phong cổ kính trang trí khá cầu kỳ. Cả khối kiến trúc nặng nề ấy nhờ hệ thống đao cong nên vẫn giữ được nét thanh thoát uyển chuyển của nghệ thuật kiến trúc đình làng Việt Nam truyền thống. Khuôn viên có diện tích 4.350 m2

          Đình Nhân Mục - Di tích đã xếp hạng cấp quốc gia

          Bờ nóc đắp bằng vôi vữa để trơn không trang trí gì. Đầu kìm đắp “hồi long” lớn mang dáng dấp thuỷ quái Makara cầu mưa thuận gió hoà. Makara có đuôi xoắn tròn gối lên trụ đấu vuông, miệng há rộng ngậm lấy bờ nóc, đầu gồ ghề nổi khối, múi cao, thân phủ kín các đồ án mây mưa, sấm chớp trông như một bầu trời đầy máy thu nhỏ. Hai tay khuỳnh rộng chống lên bờ giải rất giữ tợn. Góc mái đắp hình nghề chầu nhìn sang nhau, hai chân trước dẫm lên bờ mái ngói, hai chân sau đạp lên bờ dải trong động tác lao xuống. Thân nghệ phủ mây cụm, đao lửa, hạt tròn tinh tú, trong tư cách này nghề như “vật linh” chuyên chở bầu trời. Người xưa quan niệm nghề là con vật “vũ trụ”, hoàn toàn có tính cách tượng trưng. Nó là một trong hai con kỳ và con lần (con đực và con cái) thường đi với nhau thành một cặp (kỳ - lân). Nó cũng được gọi là con nghê (kim nghề). Nghề là một loài vật không bao giờ giết hại côn trùng và giẫm lên cỏ cây, nghĩa là rất hiền lành, nhân hậu nhưng những ai đứng chầu dưới sân đình mà thiếu nghiêm túc thì sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, cho nên nét mặt nó dữ tợn. Theo truyền thuyết, mỗi lần kỳ lân xuất hiện là thánh ra đời. Phải chăng người xưa đắp nghê chầu lên mái đình Nhân Mục để ghi nhớ sự kiện đức thành hoàng hiển linh giúp dân, cứu nước.

          Hệ thống đao đình Nhân Mục được làm khá cầu kỳ, uốn lượn gây cảm giác như đang rung rinh trước gió. Đạo cong đắp rồng chầu phượng mớm theo lối tượng tròn quen thuộc. Mặt trước toà tiền đường lắp hệ thống cửa gỗ kiểu “cửa tùng khung khách” suốt 3 gian trung tâm, các cánh cửa gian giữa phía trên trổ hàng trấn song con tiện cho ánh sáng mặt trời lọt vào góp phần làm tăng thêm vẻ huyền bí cho cõi linh. Xung quanh các toà nhà xây tường gạch che kín vừa chắc chắn, vừa tạo cho lòng nhà tối để các vật vô tri như hồn trong ánh sáng hư ảo. Dưới những mái đình duyên dáng này là những bức chạm khắc tinh xảo, sống động gắn liền với những tài hoa kiến trúc đã từng làm vẻ vang cho nền nghệ thuật dân tộc mà thời và mãi mãi sau này. Kiến trúc đình là cơ sở vật chất, môi trường cho các tác phẩm nghệ thuật, điêu khắc được trường tồn với thời gian và cuộc sống con người. Toà tiền đường cũng như các kiến trúc khác của đình Nhân Mục được làm hoàn toán bằng gỗ lim nguyên cây ống hệt đình Quán Khái, đình Từ Lâm đã được Nhà nước liệt hạng. Tiền đường 5 gian cao rộng đứng vững trên 6 bộ vì kèo gỗ và 2 tường hồi. Mỗi bộ vì gồm 4 hàng chân cột (2 cột cái và 2 cột quần) các cột lực lưỡng, chu vi lên tới 1,8 m. Cột đình được kê khít trên chân tảng đá vôi xám kiểu tròn trên vuông dưới có tác dụng chống lún và mối mọt, chỉ cần nhìn hệ thống các cột đình, chúng ta đã phần nào hình dung được sự đóng góp công của to lớn của nhân dân địa phương và những khó khăn, sáng tạo trong việc xây dựng công trình. Trân trọng di tích cha ông là biểu thị lòng biết ơn chân thành của thế hệ hôm nay đối với di sản văn hoá và sức sáng tạo vĩ đại của tiền nhân.

          Trong số 6 bộ vì kèo gỗ thì có 4 bộ kèo giữa và 2 bộ vì kèo đốc giống hệt nhau như được làm từ cùng một hiệp thợ. Các bộ vì giữa cấu tạo như sau : Đối thượng lương (xà nóc) là dép gỗ hình thanh ngửa, mặt ngoài khắc chìm chữ thọ. Thượng lương là thanh gỗ thẳng, bản rộng 30 cm, dày 8 cm. Đỡ dép gỗ đối thượng lương là một đấu sen ngửa nằm trên lưng rường bụng lợn. Rường bụng lợn lưng uốn vọng lên như cánh cung tạo cảm giác chắc khoẻ. Lưng rường đội đôi hoành thứ nhất, chân rường choãi sang hai bên đội đôi hoành thứ hai. Rường bụng lợn đứng trên hai cột trốn tròn nhô lên từ lựng câu đầu. Hai đầu cột trốn là các đấu sen vuông thót đáy. Giữa cột trốn và rường bụng lợn tạo thành khung giá chiêng chịu lực của bộ vì. Từ lưng cột trốn lao ra một rường ngắn khác nằm trên lưng câu đầu. Rường ngắn này đội đôi hoành thứ tư. Câu đầu là một thân gỗ lớn nối hai đầu cột cái trong một bộ vì qua đấu vuông thót đáy đỉnh bằng một én thít chặt. Kiểu thức kiến trúc đấu vuông đỉnh cột này chúng ta bắt gặp nhiều ở các công trình nghệ thuật cổ có niên đại thế kỷ 16, 17 như chùa Thầy, chùa Mía, chùa Trăm Gian, đình Tây Đằng... Hai bên câu đầu bào soi hình vỏ măng, trang trí khắc chim hoa lá cách điệu. Bụng câu đầu tạo ô trang trí hình chữ nhật như nhiều kiến nổi tiếng khác. Dưới câu đầu có lắp đầu dư hình rồng truyền thống. Đôi hoành thứ 5 nằm trên đầu cột cái qua lưng câu đầu. Vì dưới (tức khu vực cốn) và sử dụng kết cấu chồng rường đấu : từ thân cột cái nhô ra 3 thanh rường kế tiếp nhau để đỡ các đội hoành thứ 6, thứ 7 và thứ 8. Các thanh rường này được kê lên nhau qua đấu sen vuông và thanh rường cuối cùng gối đầu trên đầu cột trốn lao lên từ lưng xà nách. Xà nách làm nhiệm vụ nối giữa đầu cột quân với cột cái trong một bộ vì. Từ thân cột trốn vì dưới lao ra một rường ngắn đội đôi hoành thứ 9 và rường này gối trên một rường ngắn khác nằm trên lưng xà nách. Rường nằm trên xà nách đội đổi hoành thứ 10, xà nách cũng là một thanh gỗ không thua kém câu đầu bao nhiêu, hai bên chạm nổi hoa lá trang trí. Từ đầu cột quân lao xuống một bẩy hiện mập mạp, đuôi bẩy khớp mộng dưới bụng xà nách tạo thành “nghé” bẩy, đầu bẩy đỡ tàu đạo của mái đưa. Trên lưng bẩy hiện có “lá dong” bằng ván gỗ dày, khoét lõm đỡ đôi hoành thứ 11. Các hoành mái khá lớn, bào vuông thành sắc cạnh rải đều đỡ hệ thống rui

 10 và bộ mái ngói mũi hài cổ truyền. Kích thước hoành mái 15 cm x 12 cm. Hoành được phân bố “thượng ngũ hạ lục” nên mái đình rộng và thoải. Hai bộ vì hỏi đốc tương tự nhau và được cấu tạo như sau: Từ cột cái vì giữa sát hồi người ta dựng một xà đùi lớn nối với đầu cột quân giữa hồi kiểu thức giống như xà nách ở các vì giữa. Trên khoảng 1/3 xà đùi (tính từ cột cái) dựng một cột trốn tròn to và được chốt giữ bởi xà thượng (nối các đầu cột cái với nhau theo chiều dọc của nhà). Nối hai đầu cột trốn lại với nhau là một câu đầu nhỏ, trên câu đầu là kết cấu vì kèo “trụ chống ván mê” làm nhiệm vụ đỡ các đầu hoành mái trên của mái chính. Đầu cột trốn xẻ mộng lớn khớp với kẻ góc dài, đuôi kẻ chui qua đầu cột quân góc để đỡ mái đao cong, đầu kẻ nhỏ ra ngoài một đoạn chơi với trong không gian kiến trúc được chạm khắc trang trí nổi hinhf rồng có khuôn mặt sư tử dữ tợn. Đầu kẻ không đamt nhiệm chức năng gì trong kiến trúc, có lẽ việc làm này liên quan đến một tín ngưỡng tối cổ nào đó mà chúng ta chưa lý giải được. Hay đó chỉ là một hình thức trang trí đơn thuần như đầu dư hình rồng, kẻ góc làm nhiệm vụ đội các đầu hoành mái dưới và mái chính.

Đình làng Nhân Mục

          Khoảng cốn dọc tạo bởi xà đùi và cột trốn người ta dựng kết cấu vì kèo chồng rường 5 cấp để đỡ các hoành mái hồi hay còn gọi là mái chảy. Từ các cột quân hồi vẫn sử dụng kết cấu bay hiện như ở mái chính để đỡ tàu đao và hoành mái. Liên kết dọc của toà nhà là hệ thống xà thượng (nối cột cái) và xà hạ (nối cột quân) tạo thành khung chịu lực hình chữ nhật. Các xà khá lớn và cân đối với các bộ phận kiến trúc khác, bào soi hình vỏ măng. Nhình chung các bộ phận kiến trúc chính của toà tiền đường từ cột, xà, câu đầu, hoành, rui, bẩy, kẻ ... đều to lớn dị thường và được lựa chọn, tạo dáng hài hoà, cân đối đã tạo nên vẻ đẹp chung cho ngôi đình. Trang trí kiến trúc ở toà này sử dụng không nhiều, chỉ là những nét chạm nổi, khắc chìm đồ án hoa lá, cách điệu trên các thanh rường, đấu sen, câu đầu, xà nách, bẩy hiện mà thôi. Trang trí vừa đủ làm đẹp cho kiến trúc, không rối rắm, cầu kỳ. Mảng trang trí công phu nhất giành cho vì ván mê phía sau gian giữa. Trên bức cốn rộng hình chữ nhật này người ta chạm nổi một con rồng lớn, uốn lượn trong máy. Rồng mà sự tổng hoà một số bộ phận của nhiều con vật khác như sừng hươu, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng lang, râu cá trê, thân rắn, vẩy cá chép, đuôi gà ... nhìn chung, rồng đã mất tính thuần hoà, có bộ mặt hung dữ, thân uốn khúc lúc ngắn, lúc dài tuỳ hứng và gầy guộc, chân to như chân thú 4 chân.

          11 Toà ống muống vẻn vẹn có một gian hình chuối vô phía sau toà tiền đường. ống muống có chiều rộng bằng gian trung tâm và 1/2 tả gian, hữu gian của toà tiến đường. Toà này ví như một nhịp cầu nối giữa tiền đường và hậu cung trong một tổng thể kiến trúc khép kín. Ngăn cách giữa ống muống và hai kiến trúc chính là hệ thống vì ván mẻ, cửa gỗ kiểu bức bàn sơn son thiếp vàng lộng lẫy, chạm khác trang trí tinh xảo nhằm đề cao chốn linh thiêng, cửa hậu cung lắp y món cửa võng chạm thùng các điều trông như một cung vua, phủ chúa thu nhỏ. Hậu cung là một toà nhà 3 gian song song với tiền đường cũng dựng hoàn toàn bằng gỗ lim, lòng nhà tối om, u tịch đầy vẻ huyền bí, linh thiêng, nhất là trong những ngày hội lễ ngào ngạt khói hương. Vì là nơi cung cấm nơi trú ngụ của thần linh, ánh sáng trời khó lọt tới, chỉ có sự hư ảo lung linh của đèn dầu, hương nến nên người xưa không sử dụng một hình thức trang trí gì, chủ yếu là bào trơn, đóng bén để các bộ phận kiến trúc tạo nên các khối hình mờ ảo.

          Kiến trúc đình Nhân Mục còn khá chắc chắn, bền vững, bảo tồn được nguyên gốc, là một trong những đình làng to đẹp và tiêu biểu của thành phố Cảng Hải Phòng, của đất nước. Đình Nhân Mục là một công trình kiến trúc nghệ thuật, một cơ sở vật chất và môi trường cho các tác phẩm điêu khắc, đồ thờ tự trường tổn. Dưới mái đình là cảnh lộng lẫy vàng son của hoành phi, câu đối, đại tự. khám thờ, y môn, của võng ... tất cả đều nguyên vẹn, to lớn dị thường trong đó có một số cổ vật quý hiếm. Trong hồ sơ này chúng tôi xin giới thiệu đôi nét về những cổ vật hiện tồn. một đôi, tạo dáng trúc hoá long, đỉnh có con chim khổng tước, chân tạo khối thuỷ ba có cá chép hoá rồng, sư tử rất sống động. Niên đại thế kỷ 19.  Cây đèn gỗ : một chiếc. Tạo dáng một con rồng lớn quấn quanh cây trúc đài cao 1,35 m. Niên đại thế kỷ 18.

          https://disanlangviet.com/upload/fck/image/19_Nhan_Muc/1_Di_san_kien_truc/6.jpg

Tượng phượng rùa : một đôi. Phương đứng trên lưng rùa được đặt trên giá gỗ có bánh xe đẩy, cao tới 2,2 m. Phượng có mỏ cò dài, mắt nhỏ, mào to, bờm tóc là hàng vây nhọn, đầu chạy dọc gáy, thân gà mập béo, lông tỉa tót kỹ càng. Niên đại thế kỷ 19,

          Tượng ngựa chiếu : 1 đôi hồng bạch. Ngựa trắng đặt bên phải (hướng bắc) tượng trưng cho mặt trăng (yếu tố âm). Ngựa hồng đặt bên phải (hướng nam) tượng trưng cho mặt trời (yếu tố dương). Ngựa làm to lớn như thật đứng trên giá gỗ có bánh xe đẩy dễ dàng. Lưng ngựa mang đầy đủ yên cương của một chiến mã dày dạn trận mạc. Qua đò án lưỡng long chầu nguyệt thêu ở yên cương cho biết niên đại của tượng ngựa là thế kỷ 18.

          ỷ ngại : 5 chiếc đặt trên 5 hương án giống hệt nhau, trang trí rồng phượng máy bay và sơn son thếp vàng đẹp, và niên đại thế kỷ 19.

          Bát bửu : 1 bộ niên đại Nguyễn.

 Cuốn thư 1 chiếc.

          Cuốn thư hình cuốn sách mở, hai bên cuộn hình ống tròn, cắm thanh gươm lộ chuôi bạc. Nền cuốn thư trang trí hoa văn đàn tiếp đạn, chữ thập ngoặc và đắp nổi bằng minh bằng chữ Hán viết thảo . Diểm trang trí nổi các hoá long, hổ phù ngậm chữ thọ, hoa cúc mãn khai . Những đề tài quen thuộc của nghệ thuật trang trí mỹ thuật thời Nguyễn. Kích thước dài 2,5 m rộng 1,2 m. Niên đại thế kỷ 19 .Đỉnh đồng : 1 chiếc. Bát hương đồng : 4 chiếc.Chân đèn gốm men ngọc : 1 chiếc, cao 47 cm niên đại thế kỷ 18.

          Ở đình Nhân Mục, xã Nhân Hoà việc bảo tàng hoá di tích rất thuận tiện và bản thân ngôi đình đã như một bảo tàng mỹ thuật rồi. Những di vật được bảo tồn là những mảng thực của đời sống, của nghệ thuật dân tộc, góp phần tìm hiểu về quá khứ văn hoá và con người của một miền quê văn hiến ở huyện Vĩnh Bảo.

LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG

          Nhân Mục - Nhân Hoà là một vùng đất có những truyền thống tốt đẹp tồn tại trong nhân dân. Một trong những truyền thống đó là ân nghĩa thuỷ chung “ uống

nước nhớ nguồn".

          Người Nhân Hoà Vĩnh Bảo không ai không biết hội làng Nhân Mục diễn ra ngày 10 tháng 3 âm lịch hàng năm trong khuôn khổ của mùa lễ hội “ Giỗ tổ Hùng Vương” của đất nước. Khác với nhiều vùng quê của vùng châu thổ Sông Hồng, hội làng Nhân Mục trước đây không diễn ra ở đình mà diễn ra ở đền (khu vực UBND xã ngày nay) nhằm giữ chọn dấu ấn của truyền thống dân tộc được mở đầu từ các tổ Hùng Vương. Đến Nhân Mục xưa có quy mô to lớn và bé thể không kém đình Nhân Mục ngày nay. Đến gồm 3 dãy nhà kế tiếp nhau là 5 gian tiến đường, 3 gian trung đường, 2 gian hậu cung. Hiện nay đến không còn nữa, mọi hoạt động văn hoá và lễ hội cổ truyền của dân thôn đều được hội tụ tại đình làng. Nói đến hội làng Nhân Mục là mọi người nhớ đến nghệ thuật múa rối nước. Vì thế việc bảo tồn di tích phải đi đối với việc phục hưng nghệ thuật múa rối nước. Rồi là nghệ thuật đa dạng, xuất hiện khá sớm trong nền văn hoá truyền thống của hầu hết các dân tộc trên thế giới. Nhưng rối nước là loại hình nghệ thuật độc đáo, bản sắc riêng trong sáng tạo nghệ thuật của người Việt Nam. 

         

          Những năm trời đại hạn nước cho nghề nông bị thiếu, mọi cố gắng dùng sức người đưa nước về đồng bằng gầu giây, gầu sòng, ... Bất lực, người nông dân Nhân Mục trước đây đã tổ chức những buổi lễ cầu mưa tại đền và đình của mình. Đền Nhân Mục được xếp vào loại linh từ, nơi “ Quốc lễ dân cầu” của huyện Vĩnh Bảo. Hội lễ đáo vũ thu hút sự tham gia của quan viên và nhân dân hàng tổng, hàng huyện. Hội làng Nhân Mục còn có nhiều chò chơi, hoạt động khác thu hút sự tham gia đông đảo của du khách trẩy hội mùa xuân như cờ tướng, hát đúm, đámớc thần vị thánh từ đình về đền ... Ngoài ngày hội chính ngày 10/ 3, đình Nhân Mục có những ngày lễ khác như ngày mùng 7/ 1 âm lịch là ngày thánh đản, ngày 12/11 là ngày thánh hoá.

          Dù bận trăm công nghìn việc về kinh tế, dù phải vật lộn với vất vả với đời sống vật chất hàng ngày, chúng ta vẫn phải chăm lo sưu tầm, ngiên cứu lịch sử bảo vệ các di tích lịch sử văn hoá, nếu không các di tích ấy ngày càng bị huỷ hoại . 

          Xét giá trị mọi mặt của di tích, chúng tôi đề nghị xếp đình Nhân Mục vào loại hình di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật.

 

 

          Cụm di tích đình và chùa Nhân Mục là những công trình kiến trúc nghệ thuật cổ còn nguyên vẹn ẩn chứa nhiều giá trị lịch sử văn hoá. 

         

Bản thân cụm di tích đã như một bảo tàng nghệ thuật thu nhỏ với các niên đại trải dài từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20. Thật hiếm có một làng xã nào còn gìn giữ được nguyên trạng các công trình kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng cổ như ở Nhân Mục. Cụm di tích không chỉ là nơi bảo quản các cổ vật sáng giá mà còn là hạt nhân bảo tồn các hoạt động văn hoá, lễ hội cổ truyền như múa rối nước, tế lễ, hội hè ... và các tập quán tốt đẹp của dân tộc. 

 

Vũ Huy Hoàng
QR Code
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Tin mới