image banner
Năm 2023 đẩy mạnh chỉnh trang, hiện đại hóa đô thị, xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu - Thực hiện chuyển đổi số
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ CẤP QUỐC GIA MIẾU, CHÙA CỰU ĐIỆN XÃ NHÂN HOÀ - HUYỆN VĨNH BẢO THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Lượt xem: 157
DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ CẤP QUỐC GIA MIẾU, CHÙA CỰU ĐIỆN XÃ NHÂN HOÀ - HUYỆN VĨNH BẢO THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ CẤP QUỐC GIA MIẾU, CHÙA CỰU ĐIỆN

XÃ NHÂN HOÀ - HUYỆN VĨNH BẢO

THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

***

PHẦN A: MIẾU CỰU ĐIỆN.

I/ LỊCH SỬ, TÊN GỌI

          Di tích Miếu Cựu Điện xã Nhân Hoà, cách trung tâm huyện Vĩnh Bảo 2 km. Địa hình của xã bằng phẳng, có sông Tắc Giang và sông đào Chanh Dương bao bọc, tưới mát cho đồng đất. Phía Nam của xã có đường quốc lộ số 10 và đường số 17 chạy qua địa bàn xã. Xã Nhân Hoà hiện có 3 thôn : Mai Sơn, Nhân Mục, Cựu Điện, nguồn sống chủ yếu bằng nông nghiệp lúa nước, riêng thôn Nhân Mục có thêm nghề khác như làm sơn mài, đan cót, thợ mộc, nề theo thời vụ. Theo danh sách năm 1838, nhà Nguyễn sát nhập 5 tổng của huyện Tứ Kỳ và 3 tổng của Vĩnh Lại cũ là Thượng An, Đông Am, Ngãi Am để lập huyện Vĩnh Bảo ngày nay. Trong 11 tổng của Vĩnh Bảo cho thấy, tổng Kê Sơn gồm 10 xã thôn làng : Kê Sơn, Nhân Mục, An Biên, Nhân Giả, Mai Sơn, Từ Đường, Cựu Điện, Tứ Duy, Hoàng Kinh và Kinh Trạch.

          Về tên gọi của xã, sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, chính quyền cách mạng ở cơ sở dồn 3 xã nhỏ thành một xã lớn. Lúc đầu gọi là Mai - Nhân -Điện, sau lại đổi thành Điện - Nhân - Sơn (vì tên nào cũng muốn có tên thôn cũ trong thành phần địa danh xã mới). Đến ngày 25/2/1946 tại khoá họp đầu tiên của Hội đồng Nhân dân xã, toàn thể các Đại biểu đã nhất trí ý kiến đặt tên cho xã 

trong cụm từ “Thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, đã được ông cha ta tổng kết, trong mưu sự việc đời xã Nhân Hoà được duy trì liên tục từ ngày đó đến nay.

          Là một trong 3 xã nhỏ của tổng Kê Sơn, hợp thành xã Nhân Hoà từ cổ xưa (ít ra là trước thời Lý (1009 - 1225)) đã có trang Cựu điện rồi. Các dòng họ đầu tiên từ Nhân Giả xuống đánh bắt ở cánh đồng trũng phía bắc làng là họ Đoàn, họ Đỗ, họ Nguyễn lập thành trang trại rải rác theo từng cánh đồng mới khai phá, mỗi trại có từ 10 đến 15 hộ là cùng. Thời vua Lý Nhân Tông có Kim An (trước đây địa phương vẫn gọi là Vi Phủ An) làm bộ tướng của Lý Thường Kiệt đem quân vào đất Tống thực hiện chiến lược “tiên phát chế nhân” (tiến công trước để kiềm chế giặc), có dừng lại đóng quân doanh đồn trại tại trang. Về sau cuộc chiến đấu thắng lợi, ông Kim An qua đời, nhân dân địa phương thiết lập nơi thờ tự tại nơi điện cũ, gọi là Cựu Điện, tên này dùng đặt cho tên làng xã sau này. Bây giờ Cựu Điện gồm 3 thôn nhỏ : Trung Thôn, Thượng Thôn và Mễ Thôn. Đến năm Minh Mệnh thứ 5 (1825), do có mâu thuẫn về quyền lợi trong hàng ngũ chức sắc, Cựu Điện đã được chia làm 3 xã riêng biệt. Đơn vị hành chính mới của huyện Vĩnh Bảo hiện nay: Cựu Điện thuộc xã Nhân Hoà; Thượng Điện, Nhân Mễ thuộc xã Vinh Quang.

          Về những lý do về nguồn gốc lịch sử và thay đổi hành chính như đã trình bày ở trên. Di tích miếu thờ Kim Ân, được gọi theo tên địa phương, nơi sản sinh ra công trình là miếu Cựu Điện.

II/ ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ - ĐƯỜNG ĐI ĐẾN DI TÍCH.

          Du khách nội thành Hải Phòng, hay trên mọi miền đất nước có nhu cầu tham quan, tìm hiểu cụm di tích lịch sử văn hoá Cựu Điện xã Nhân Hoà, huyện Vĩnh Bảo đều có thể tới được công trình khá đồ sộ này bằng mọi phương tiện giao thông trên bộ.

          Xuất phát từ trung tâm thành phố, theo quốc lộ số 10, qua cửa ô Cầu Niệm đến thị xã Kiến An. Qua hai bến phà Quý Cao và Tiên Cựu đến thị

trấn Vĩnh Bảo. Từ đây xuống UBND xã Nhân Hoà độ 2 km sẽ được chỉ dẫn đến cụm di tích.

          Lối thứ 2, cũng xuất phát từ trung tâm Hải Phòng, sang thị xã Kiến An, nhưng đi lối đường 354 qua bến phà Khuể, sang huyện lỵ Tiên Lãng. Từ đây qua cầu phao Đăng đến địa phận xã Tam Đa (Vĩnh Bảo), từ đó đi thẳng tới UBND xã Nhân Hoà, nơi có di tích. Cụm di tích xã Nhân Hoà nằm trong tổng thể các di tích lịch sử văn hoá của huyện Vĩnh Bảo đã được Bộ Văn Hoá công nhận trong những năm gần đây, sẽ nối dải công trình văn hoá cổ từ trung tâm huyện đến các làng quê văn hiến như Đồng Minh, Nhân Hoà, Lý Học, Quán Khái, Cộng Hiền ... tạo ra sự phong phú về nội dung và loại hình di tích của huyện Vĩnh Bảo. Chắc chắn nơi đây sẽ gây nhiều thích thú cho du khách thập phương về tầm vóc lịch sử và giá trị văn hoá vốn có của di tích.

III/ SỰ KIỆN - NHÂN VẬT LỊCH SỬ

          Căn cứ vào bảng thần tích núi miếu Cựu Điện, do Hàn lâm lễ viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572). Quản giám bách linh trị điện đời Lê Vĩnh Hựu (1735) là Đại học sĩ Lê Trung sao lại bản chính. Đồng thời văn bản kể trên đã được các cụ nho học ở Cựu Điện sao chép nhiều lần, nói chung sự kiện lịch sử diễn ra thời kỳ này là bản thần phả miếu Cựu Điện nhắc tới, trùng với ghi chép trong biên niên sử trung đại Việt Nam, duy chỉ có năm cuộc tiến công của Lý Thường Kiệt sang đất Tống là 1075 tháng 9 ngày 15, chứ không phải vào năm 1057. Theo thần tích, vị thành hoàng được thờ tại miếu Cựu Điện vào đời Lý Nhân Tông ở đạo Thanh Hoá (Châu ái), phủ Thuận Thiên, huyện Hương Trà, trang Vĩnh Thiệu. Có gia đình, chồng họ Kim tên Yến, vợ là Nguyễn Thị Kim. Vợ chồng ăn thuận ở hoà, làm nghề bốc thuốc, hay giúp đỡ những người nghèo khổ, và không cầu lợi về mình, hiềm một nỗi ông bà lo lắng, ước mong có được mụn con trai, sau này nối nghiệp. Một ngày kia, nghe tin ở mạn Châu Hoan, có chùa Khổng Tước rất linh ứng, ông bà bàn sắm sửa lễ vật đến chùa ấy nguyện cầu. Sau đó ông bà lại ra sức làm điều thiện cứu vớt kẻ nghèo khó. Sau 13 tháng, đúng vào ngày 10/8 năm sau, bà Kim sinh được một người con trai mặt mũi khôi ngô tuấn tú, đặt tên là An. Lên 3 tuổi, ông An biết nói, kính trên, nhường dưới. Từ khi 7 đến 16 tuổi, được mẹ cho ăn học, lại được thầy chăm sóc dạy bảo thêm sách binh thư, đồ trận. Sau khi từ chối ý định của cha mẹ muốn hỏi vợ sớm cho mình, ông An xin phép được xin du học mọi nơi, hiểu thêm nhiều điều hay, lẽ phải ở đời. Năm 20 tuổi, cha mẹ đều qua đời, được dân làng sở tại lo mai táng mồ yên

1076, ông An đã 25 tuổi. Thành ở phía Nam đem 5 đạo

mả đẹp, việc cư tang đủ 3 năm. Lúc đó vào năm Giặc Tống ở phía Bắc hợp cùng quân Chiêm quân thuỷ bộ chia làm nhiều ngả vào xâm chiếm nước Đại Việt ta. Triều đình cử Lý Thường Kiệt làm đại tướng quân, tổng chỉ huy quân sĩ, mặt khác lại cho người đi tuyển thêm nhân tài. Sứ giả đến đạo Thanh Hoá tuyển mộ người tài, ông An tình nguyện đầu quân, đạt văn võ toàn tài, được vua Lý phong chức “Phó tướng đô chỉ huy sứ”, cho đem một đạo quân cùng Lý Thường Kiệt và các tướng lĩnh khác tiến về phía đông bắc. Trải mấy ngày đêm ròng rã, quân đến đạo Hải Dương, phủ Hạ Hồng, huyện Vĩnh Lại, trang Cựu Điện, thấy nơi đây cảnh đẹp, đường ngõ thuận hành, lại gần mặt biển phía nam, bèn sai quân thiết lập dinh đồn tại đây. Ông An cho dân làng biết là quân triều đình đánh giặc, dân làng đem lễ vật ra uý lạo, lại xin làm thần tử, có 20 dân binh trang Cựu Điện được tuyển vào đội quân của ông An. Như chính sử đã ghi nhận, dưới sự chỉ huy tài tình của Lý Thường Kiệt, chiến dịch tiến công để tự vệ trên đất Tống của đại quân ta giành được thắng lợi. Ngày thắng trận đúng vào ngày 10/3 âm lịch.

          “.... Tháng 4 - 1076, Lý Thường Kiệt rút quân về nước sau khi san phẳng sào huyệt của giặc ở biên giới, trong khi đánh sang đất Tống, ông có làm bài “Lộ Bố” kể rõ tội ác của nhà Tống với nhân dân hai nước Trung Quốc, Đại Việt và nghĩa vụ đi đánh giặc để cứu dân hai nước(1).

( Trích biên niên sử cổ Trung Đại Việt Tr.111, NXB Khoa Học XH 1982

          Riêng đoàn quân của ông An, về lại nơi đồn binh cũ là trang Cựu Điện, truyền lệnh báo cho dân sở tại biết về chiến thắng của quân ta. Trẻ già, trai gái đều vui mừng đem lợn, gà, gạo làm bánh dày khao quân chào đón quân ta chiến thắng trở về. Trong bữa tiệc vui vẻ, các vị bộ lão tàu với ông An rằng, từ lúc đồn binh đóng ở Trang Cựu Điện, trộm đạo, giặc giã đã không dám quấy nhiễu nhân dân, mùa màng tươi tốt, dân chúng người người làm ăn thịnh vượng, ơn này thấm mãi ngàn năm. Xin với ông An, sau này khi ông mất dân làng lập nơi thờ tự tại nơi đồn sở để thờ cúng mãi mãi. Ông An cảm ơn dân làng Trang Cựu Điện và nói: ”Sở dĩ quân ta đánh thắng giặc Tống, giặc Chiêm trước nhờ lòng trời, sau nhờ có lòng dân, ông truyền lấy mười nén vàng cho dân mua vật liệu xây đền miếu làm nơi thờ tự sau này”.Lại truyền cho dân lấy ngày thắng trận 10/3 ngày sinh, họ tên cha mẹ kính yêu của ông, phòng khi có lệ ngạch thì dân làng mời thánh phụ, thánh mẫu cùng về phối hưởng. Sau đó ít lâu, ông An mất vào ngày 12 tháng 11 âm lịch, dân trang Cựu Điện đau buồn, cùng dựng miếu thờ tại chính nơi đồn sở trước đây. Đền miếu đã dựng xong, triều Lý đã ban tặng ông An 28 chữ vàng sau:

          Tặng phong hộ quốc tế thế, an dân, phù tộ, hùng lược, dũng quốc, quang hoa, thắng toàn, hùng tài, vũ lược, đương cảnh thành hoàng, tý lưu tôn thần”. Triều Lý còn cho sứ giả về xem xét lại và cho phép dân Trang Cựu Điện hàng năm cúng tế.

          Trải qua các triều đại: Trần, Lê đến các đời vua Lê Trung Hưng, Nguyễn, Tây Sơn đều có sắc phong cho thần hoàng Trang Cựu Điện và cũng từ lúc ấy đến nay, Trang Cựu Điện lấy ngày 10/3 hàng năm là ngày hội lớn của dân làng. Ngày 10/8 là ngày sinh, ngày 12/11 là ngày hoá.

IV/ KHẢO TẢ DI TÍCH:

          Như phần lịch sử của nhân vật đã trình bày ở trên. Nguồn gốc của di tích có từ thời hậu Lý, do nhân dân lập lên để thờ Kim An (quê Châu ái) là phó tướng của Lý Thường Kiệt, ngay tại quân doanh cũ của ông, tại Trang

Cựu Điện. Theo các cụ già làng truyền lại,trước đây miếu rất đơn sơ, nhưng càng về sau càng mở mang to đẹp. Đỉnh cao rực rỡ của kiến trúc Cựu Điện là năm 1913 (Duy Tân thứ bảy). Trên diện tích rộng 4320 m2 (1 mẫu 2 sào), các vị chức sắc làng xã cùng với nhân dân đã sớm quy hoạch, tôn tạo nơi miếu điện thờ vị có công đánh giặc giữ nước ngay tại quê hương mình, qua một tổng thể công trình liên hoàn, khép kín, đồ sộ lại phù hợp với cảnh quan vào bậc nhất bấy giờ và có lẽ thế hệ chúng ta chỉ đôi lần gặp lại qua nghệ thuật kiến trúc Nguyễn đầu thế kỷ 20 như : Cung đình Huế, phủ Giầy, lăng Hoàng Cao Khải ... mà thôi. Mặt chính của toà miếu quay về hướng Bắc, kết cấu theo kiểu nội công ngoại quốc. Toà nội cung cao ngất, làm theo lối chồng diêm, nóc các. Toà miếu trong này cao, kiến trúc hài hoà giữa truyền thống và đương đại đầu thế kỷ 20, mái 9 nóc, vòm cuốn lan can trụ bổ bồng, gắn men sứ, gương vỡ. Đỉnh nóc là 2 toà lầu nhỏ đứng song hành, như thường thấy trên các toà nhà cao tầng thời Pháp (đầu thế kỷ 20). Chữ Hán gắn bằng mảnh gốm sứ vỡ, to cỡ 10 cm, nội dung : Đăng cao - Tiềm vọng nghĩa là : đèn cao, chiếu xa. Hợp với vị trí bao quát của đỉnh thượng toà hậu cung miếu Cựu Điện. Đây cũng là phần kiến trúc còn nguyên vẹn của miếu Cựu Điện hiện nay.

          Sát với toà hậu cung 9 nóc là nhà đại bái 3 gian, được phân cách với toà hậu cung bằng 3 khung cửa võng sơn thếp rực rỡ và khung tường xây dựng kiểu vòm cuốn cực lớn.

          Toà kiến trúc ngoài gồm 5 gian, kết cấu theo kiểu chồng giường đốc thước mới, dân làng tu tạo năm Tân Mùi 1991, để thay thế cho 2 toà giải vũ 5 gian đứng song song hướng mặt vào nhau qua một sân tế rộng 4 m, dài tới 7 m. Hai dãy nhà là giải vũ này vẫn còn nguyên tường móng, nền gạch cũ.

          Sau toà giải vũ có nhà chiêng, trống (2 tầng mái, hình lục lăng) như đã thấy ở đền Phủ Giầy (tỉnh Nam Hà) do đổ nát đã được cải tạo thành nhà truyền thống địa phương, đối diện với phía sân bên kia là câu lạc bộ cựu

chiến binh.

          Đối diện với trục dọc từ cửa miếu ra, còn có hồ nước, trong hồ còn có núi non bộ, tạo cảnh non xanh nước biếc nhân tạo, đầy đủ thế rồng chầu hổ phục, rất sinh động, cỏ cây hoa lá, đường lên núi.

          Đặc biệt có tấm bia đá khắc đầu thế kỷ 20 (1928) ghi lại việc dân làng đắp núi non bộ, cùng ngôi chùa mang tên “Khổng Tước Tự” trên núi non bộ. Theo thần tích miếu Cựu Điện, đây là mái chùa thiêng mà cha mẹ vị tướng quân Kim An đã tới nguyện cầu trước khi sinh ra ông.

          Tóm lại kiến trúc của miếu Cựu Điện trước đây là kết quả của sự hoà trộn tinh hoa, của truyền thống cổ với những kiến trúc mới đầy đường nét khoẻ khoắn đầy hình khối mà không xa rời chức năng thoả mãn đời sống văn hoá tinh thần của cư dân địa phương sở tại.

          Trong kháng chiến, toà bái đường, 2 dãy giải vũ, nhà chiêng trống hình lục lăng đã bị dỡ huỷ. Qua bài vè của cụ Đáng, người địa phương làng khi xây miếu năm 1913, người ta đã dựng lại nguyên vẹn kiến trúc, cảnh quan tổng thể của di tích miếu Cựu Điện một cách hoàn chỉnh nhất (xin tham quan nhà trưng bày truyền thống của thôn Cựu Điện).

          Bài vè cảnh miếu Cựu Điện được viết cách đây 81 năm như sau:

                   Thấp cao chín nóc lộ nhô

                   Lát gương trổ sứ điểm tô sáng ngời

                   Lục lăng chồng nóc sánh đôi

                   Cột xây qui bối tường dồi tổ ong

                   Hai nhà chiêng trống song song

                   Chồng diêm nóc cáp mái vòng xinh xinh

                   Đền trong nổi nóc phương đình

                   Hậu cung chồng công trình đẹp thay

          Qua sân tế, trước toà bái đường của toà miếu, bước xuống sân đánh cờ người cùng con đường dẫn ra hồ nước có hòn non bộ tất cả đều được lát

gạch. Hai phía tả hữu của tường sân có cửa thông ra con đường làng và thông sang ngôi chùa làng. Phía sân đất sau miếu là xới vật mỗi khi làng vào đám.

          Di tích có liên quan tại khuôn viên di tích phía bên trái tường hồi hậu cung miếu Cự Điện, còn một am thờ nhỏ đặt bát hương cùng một số đồ thờ tự đơn sơ, am xây hình vòm cuốn, có cửa sổ vững chắc dưới gốc cây hoa sữa cổ thụ. Theo huyền thoại lịch sử địa phương đây là nơi thờ một phụ nữ có công nuôi dưỡng ủng hộ đoàn quân do ông Kim An thời gian đóng đồn trại ở trang Cựu Điện ngày ấy. Tuy cấu trúc đơn sơ nhưng am thờ đã thể hiện tấm lòng cao cả của nhân dân địa phương tất cả vì chiến thắng của dân tộc, ngay trong kỷ nguyên Đại Việt thế kỷ 11 anh hùng mà hình ảnh bà mẹ Sữa và 20 trai tráng địa phương đã góp phần nhỏ bé vào chiến tích chung.

 V/ NHỮNG HIỆN VẬT ĐÁNG QUAN TÂM

          Miếu Cựu Điện hiện tại còn bảo lưu rất nhiều cổ vật quý, phần được bài trí, phần lớn được cất giữ cẩn thận như những báu vật của làng xã. Những hiện vật này gồm 32 danh mục được phân loại qua từng chất liệu chính : đồ đồng, đồ gốm sứ Trung Hoa, đồ gỗ, đá. Khuôn khổ một hồ sơ di tích, đứng trước khối lượng hiện vật quá đồ sộ của miếu Cựu Điện. Chúng tôi chỉ khảo tả một số hiện vật tiêu biểu mà thôi.

1. Bộ ngũ sự gốm men hoa lam gồm 2 cây hoa cao 39 cm, đường kính chân 11,8 cm, đường kính miệng 12,5 cm. Hai cây đèn cao 40 cm. Một đỉnh miệng chữ nhật chân nghề cao 46 cm, ngang 21 cm.

2. Choé mộc dục, có nắp, 3 vấu : men hoa lam, hoa văn ô cụ cao 47 cm, đường kính miệng 44,5 cm. Choé không nắp cao 38 cm, hoa văn rồng.

3. Lộc bình gồm các loại hoa văn : con trĩ, con công, sơn thuỷ có số đo chiều cao 59 cm, đường kính miệng 20,5 cm. Lộc bình hình lục lăng cao 58 cm, miệng 17 cm.

4. Đôi ngựa thờ màu hồng và bạch, dưới có khung bánh xe tròn để di chuyển. Số đo cả bệ cao 1,8 m, dài từ ức đến đuôi là 1,35 m. Ngựa thờ

bằng gỗ được tạo dáng khoẻ mạnh, đầy đủ yên cương, cổ đeo dây nhạc đồng tạo âm hưởng như khi xung trận.

5. Hạc đứng trên lưng rùa, chất liệu gỗ, mỏ sừng, cao tới 2,55 m, ngang 37 cm, dài bệ 1,36 cm, có giá trị biểu trưng cho sự đối lập âm dương và bền vững trường tồn của vũ trụ.

6. Đôi câu đối hình lòng máng dài 3,54 m, ngang 57 cm. Trang trí hoa dây,

ngũ phúc trên nền hoa gốm.

          - Đáng chú ý có đôi câu đối thứ 2, chữ và hoa văn trang trí khảm trai, dài

2,88 m, ngang 33cm. Chữ đề :

                   Sam thiên hoá dục cổ Huyền cơ,

                   Đặc địa lâu dài trung vượng khí.

7. Bức hoành phi, tạo dáng hình cuốn thư mở chữ đen, nổi trên nền vàng, hoa gấm đăng tải bài vị cổ :

                   Tải phong tích hiển nam thiên cổ

                   Nho tướng danh lưu bắc địa hưng

8. Cỗ kiệu bát cống : dài 4,20 m, khoảng cách giữa 2 thanh ròng 1,02 m. Cũng như nhiều cỗ kiệu bát cống tại các di tích khác, với công cụ là đồ thờ tự tại di tích, đồng thời dùng nghênh rước trong ngày đại lễ. Diễm khắc của ngày kiệu bát cống miếu Cựu điện là sự chuyển tiếp nghệ thuật trang trí hậu Lê cuối thế kỷ 17 sang phong cách Nguyễn, biểu hiện rõ nhất: Đầu các thanh đòn được tạo thành đôi rồng mũi to, 5 đôi đao mác thẳng, song song từng đôi một. Điểm trang trí quanh ngại bành bằng các đồ án rồng vuốt râu, chầu mặt nguyệt, song đã thấy xuất hiện xen lẫn đồ án long mã, hoa dây.

9. Các hiện vật khác : Hương án tiền dài 0,95m; cao 0,93m ngang 1,44m. 

- Tượng đội ông phỗng cởi trần quỳ dâng rượu, cao 26 cm

- Tượng quan văn

- Tượng quan võ to gần bằng người thật, sơn thếp, trang phục gọn ghẽ, nghiêm nghị : Quan văn mặt trắng tay cầm nghiên bút, Quan võ mặt đỏ gay, tay cầm kiếm .

- Bia đá: 4 chiếc, hậu thần bia ký.

10. Sắc phong: Theo thống kê, miếu Cựu điện có tới 26 sắc phong qua các triều đại. Nay chỉ lưu giữ được 12 sắc. Trong đó có các: Cảnh Hưng 1740, Quang Trung, Cảnh Thịnh, Chiêu Thống nguyên niên...

11. Ngai mũ thờ: Cao 1,28m, ngang 73cm, mũ rồng cao 60cm. Ngai được tạo dáng độc đáo. Chính giữa là đôi rồng tranh mặt nhật, xung quanh có các vành lửa bay lên. Tay ngại được tạo dáng từ đôi rồng khác, từ mô típ nghệ thuật từ loại cây quý hoá long (xem thêm ảnh chụp).

Ba bức cửa võng dài 2,45 m trang trí ở chính gian tiền tế và hai lối bên vào toà hậu cung.

VI/ TRUYỀN THỐNG LỄ HỘI VĂN HOÁ

          Theo tục lệ cổ truyền địa phương, trong một năm có những ngày lễ chính như sau:

          Ngày 10/3 âm lịch, là ngày mừng thắng trận. Tổ chức hội lễ từ 10 đến 12. Có các trò chơi cờ tướng dàn sân, quân ngà cực lớn (thay vì trước đây có cờ người quân thật), đốt cây bông, múa kỳ lân, hát chèo, đánh vật ở sân sau miếu. Đặc biệt là lễ hội Nhân Hoà còn bảo lưu được môn múa rối nước độc đáo, mà các nhà nghiên cứu nghệ thuật từ lâu đã chỉ ra rằng đã có nguồn gốc từ thời Lý. Trên miền Bắc hiện tại chỉ có làng Nguyễn (Thái Bình). Làng Đào Thục (Đông Anh Hà Nội), làng Cựu điện (Nhân Hoà Hải Phòng) còn duy trì bộ môn nghệ thuật độc đáo này. Các nghệ nhân cao tuổi ở xã Nhân Hoà ngày nay không chỉ duy trì nghệ thuật rối nước tại quê hương mà còn góp phần chỉ bảo, truyền lại ngón trò đó cho

con cháu, trong thành công vang dội của đoàn nghệ thuật “Hoa Phượng đỏ” trên sân khấu quốc tế cuối năm 1992 vừa qua.

          Ngày sinh của Kim An 10/8, trước đây được dân làng coi là chính lệ. Lễ nghi trọng thể : Bày trên bàn bánh trưng, bánh dày. Ban dưới tuỳ theo: Thịt trâu, bò, gà, lợn, xôi, rượu.

          Hình thức vui chơi : có ca hát, đấu vật, đánh cờ.

          Ngày hoá: 12/11 âm lịch. Lễ vật như trên. Nhưng lệ làng không vui chơi, ca hát.

VII/ PHƯƠNG ÁN SỬ DỤNG, BẢO VỆ DI TÍCH

          Để tương xứng với bề dày lịch sử truyền thống địa phương, nơi sớm có phong tào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhiều năm là lá cờ đầu trong phong trào văn hoá giáo dục ở thành phố Hải Phòng. Với thuận lợi lớn là di tích (gồm miếu và chùa Cựu Điện)đã sơm được quy hoạch gọn thành khu có cổng, tường baosân gạch, cây cổ thụ.

          Việc tiếp tục khai thác, phát huy thế mạnh truyền thống văn hoá cần có sự đầu tư, hỗ trợ của địa phương và thành phố (Nghành văn hoá và du lịch). Bởi cảnh quan nơi đây sẵn có tiềm lực, song kinh phí có hạn, công trình tu tạo, sửa chữa rất lớn. Được sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền xã, Ban bảo vệ di tích đã được thành lập, đảm đương chức năng bảo vệ, phát huy tác dụng của di tích hiện nay.

PHẦN B CHÙA CỰU ĐIỆN

I/ TÊN GỌI

          Ngôi chùa Cựu Điện còn có tên chữ hiện tại là Phúc Lâm Tự. Do có những biến động trong quá trình phát triển của làng xã, chùa đã có 3 lần chuyển dịch vị trí, mỗi lần chuyển dịch, chùa đều được gọi những tên khác

nhau.

1. Thời thượng cổ, chùa được gọi là chùa Am, hay chùa Trình, vì quy mô nhỏ, sơ sài.

2. Đến năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1737) chùa được chuyển về góc phía tây bắc làng, mang tên Tâm Thanh Tự.

3. Năm Tự Đức nguyên niên (1848) chùa được chuyển về diện tích sát khu cảnh quan miếu Cựu Điện như hiện nay, chùa gọi : Phúc Lâm Tự như hiện nay.

II/ ĐỊA ĐIỂM PHÂN BỐ CỦA NGÔI CHÙA:

          Là một công trình tín ngưỡng văn hoá của làng xã, ngôi chùa làng Cựu Điện luôn gắn với tình cảm, sự tồn vong của nhân dân địa phương. Qua con đường nhỏ từ UBND xã Nhân Hoà, rẽ vào cổng làng xây gạch (là một trong 5 chiếc cổng làng còn lại) độ 100 m rẽ vào cổng miếu, qua khu vực cảnh quan, hồ nước, cây cổ thụ, sân lát gạch, tới cổng đứng song song với cổng miếu là rẽ sang địa phận đất chùa. Tuy nhiên, ở phía bắc, chùa Phúc Lâm còn một chiếc cổng cũ xây gạch đề rõ niên hiệu lần trùng tu 1936 song cổng lối này lâu nay dân làng không sử dụng, đi qua cổng miếu cho tiện. Bởi miếu và chùa từ lâu đã được làng xã qui hoạch thành một quần thể khép kín vừa tiện lợi, vừa rộng rãi.

III/ NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ CÁCH MẠNG - KHÁNG CHIẾN MÀ NGÔI CHÙA CÓ LIÊN QUAN

          Từ năm 1936 đến năm 1945 chùa Cựu Điện do Sa môn Thanh Thuỷ, quê ở xã Cao Sơn, huyện Thái Ninh (Thái Bình) trụ trì, ông là đệ tử của Vi Hoà thượng chùa Vinh Quang, thôn Thượng Điện. Quá trình tu hành Sa môn Thanh Thuỷ đã lấy cửa chùa tu hành, đồng thời tham gia hoạt động cách mạng, che mắt bọn mật thám và bọn phản động tay sai Pháp. Đến sau cuốc cách mạng thánh tám thành công ông chuyển vùng công tác tại toà án khu tả ngạn tức Quân khu ba sau này, tại tỉnh Ninh Bình. Năm 1946, có ông Bùi Văn Hiệt quê ở Ninh Giang (Hải Hưng) vừa trông chùa, vừa tham gia công tác địa phương, lãnh đạo phong trào trong làng xã. Năm 1948 được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam (bí mật). Khi thực dân Pháp chiếm đóng huyện lỵ Vĩnh Bảo. Chùa Cựu Điện trở thành nơi cán bộ đi về hoạt động nắm tình hình hoạt động của bọn tề ngụy xã . Chùa có hầm nuôi dấu cán bộ cất dấu tài liệu của cách mạng. Năm 1948, chùa Cựu điện là cơ quan huyện bộ Việt minh, huyện Vĩnh Bảo đóng cơ quan. Năm 1949 tổ công binh tỉnh Hải Phòng - Kiến An. Thời kỳ chiến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ 1967. Bệnh viện Vĩnh Bảo sơ tán. 1971 huyện uỷ Vĩnh Bảo đóng, làm việc.

IV/ KHẢO TẢ DI TÍCH:

          Theo tài liệu ghi chép của địa phương và kết quả thực địa cho thấy: Kiến trúc hiện tại của chùa Cựu điện được làm mới năm 1932, sau 3 lần di chuyển. Mặt chính của toà phật điện và nhà tổ đều quay hướng Tây. Thượng điện cấu trúc chữ Đinh, năm gian tiền đường, 3 gian hậu cung. Vì kèo kết cấu kiểu giá chiêng năm gian tiền với 6 bộ vì gỗ, 24 cột tròn. Chuỗi vồ 3 gian, xây bệ xi măng từ cao xuống thấp bày các vị tượng phật. Khác hẳn với một số công trình tôn giáo niên đại Nguyễn ở Hải Phòng. Chùa Cựu điện ở phần hiện phía trước rộng rãi, cao, nền tới 0,8m, mái hiện xây kiểu vòm cuốn. Mặc dù tường hồi, bít đốc, mái lợp ngói cổ, song phần trang trí trên bộ khung gỗ như: Bẩy, câu đầu, kèo vẫn giữ được nét chạm đục truyền thống nghệ thuật Nguyễn qua hình lá guột, chữ triện bong trên gỗ. ở vị trí thấp hơn, có nhà thờ các vị sư tổ trụ trì tại chùa, đó là Sa môn Thích Thanh

Bằng. Ban thờ hậu ở hồi phía trái, có pho tượng chân dung bà Vũ Thị Thiện, hiệu là Diệu Nam, có công cúng nhiều tài sản, ruộng vườn xây dựng chùa. Nhận xét về kiến trúc hiện tại: Chùa Cựu điện so với miếu là một khuôn viên hoàn chỉnh, gọn ghẽ, có đủ sân vườn, cây cổ thụ, hai mộ tháp, chất lượng công trình còn bền đẹp.

V/ CÁC HIỆN VẬT ĐÁNG QUAN TÂM

1 - Tượng Phật : Tổng số 18 pho tượng Phật còn lại trên Phật Điện, chúng tôi thấy nổi bật vẻ đẹp lộng lẫy, giá trị nghệ thuật tạo hình qua lồng tượng Cửu Long của chùa. Toà Cửu Long còn đầy đủ chín con rồng, cùng các pho tượng nhỏ, sắc hoàng kim rực rỡ, ở giữa có đức Thích Ca lúc mới ra đời, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. Số đo toàn bộ: lồng tượng cao 1,7m, ngang 1,2m. Kỹ thuật tạo hình tinh vi, khéo léo. Đây là lồng tượng Cửu Long đặc sắc trong số các chùa chiền hiện tại ở Hải Phòng.

2 - Các pho tượng Phật khác gồm: 3 vị Tam Thế toạ trên đài sen, hai bàn tay lồng vào nhau, khoanh chân, lộ bàn chân phải. Số đo, tư thế cả 3 pho tượng tương tự nhau: Cao 0,72m, ngang (hai đùi) 0,46m.

Tượng Adi đà: Cao 1,08m, số đo vai 0,82m, lòng đùi 0,85m. Các pho tượng khác có: Quan âm Tống Tử, Quan âm Thiên thủ Thiên nhỡn 4 đôi tay, Nam Tào, Bắc Đẩu.

Đặc biệt : có 2 vị tượng gỗ Hộ Thiện, Hộ áo cỡ nhỏ, chỉ cao 35 cm.

Nhìn chung tượng Phật ở chùa Cựu Điện được bảo quản tốt, kỹ thuật tại khéo, niên đại muộn, đầu thế kỷ 20.

3 - Chuông đồng : Cao 1,2 m, đường kính đáy 50 cm. Niên hiệu Tự Đức Nguyên niên (1848)

4 - 1 bia đá, hậu phật bia ký : Khắc năm Vĩnh Hựu 2 (1737) được di chuyển từ chùa cũ về.

5 - Đại tự : 2 bức, chữ đề : Phúc Lâm thuyền tự và Thanh Thái tử tôn.

Trước đây cơ ngơi tài sản chùa vẫn còn có sự tăng trụ trì. Sau hoà bình dân làng đã cử người có tín nhiệm lần lượt ra trông coi. Đến nay chùa được sự lãnh đạo quản lý thống nhất của Ban tu tạo, bảo vệ di tích của thôn Cựu Điện, xã Nhân Hoà.

VI GIÁ TRỊ LỊCH SỬ VĂN HOÁ CỦA CỤM DI TÍCH MIẾU CHÙA CỰU ĐIỆN

Miếu chùa Cựu Điện là một cụm di tích cổ, gắn liền với lịch sử phát triển, hình thành của địa phương từ ngàn xưa đến quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng cuộc sống mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền. Cụm di tích Cựu Điện là niềm tự hào của lớp người dân sở tại về truyền thống đấu tranh yêu nước, chống giặc ngoại xâm, phản ánh đời sống văn hoá tinh thần phong phú ở làng xã cổ như Cựu Điện ở địa bàn Hải Phòng ngày nay. Qua hoạt động lễ hội, cụm di tích còn bảo lưu và phát huy được nghệ thuật rối nước cổ truyền, võ vật, múa tứ linh : Long, ly, quy, phượng ...

Cụm di tích đã bảo lưu được một số lượng lớn các cổ vật có giá trị nghệ thuật cao. Nếu được quan tâm một cách thích đáng, nơi này sẽ là một điểm du lịch lý tưởng. Xét giá trị nhiều mặt : không gian - hiện vật văn hoá mà cụm di tích hàm chứa. Chúng tôi đề nghị Hội đồng xét duyệt các cấp, kính chuyển Bộ Văn hoá Thông tin ra quyết định công nhận miếu chùa Cựu Điện, xã Nhân Hoà, huyện Vĩnh Bảo là di tích lịch sử văn hoá.

 

Vũ Huy Hoàng
QR Code
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Tin mới